Không có tấm bằng tốt nghiệp ĐH được công nhận trên phạm vi toàn cầu là thiệt thòi của thanh niên Việt Nam khi hội nhập với thế giới. Nhưng thiếu đi tấm "hộ chiếu" đó, những người Việt trẻ vẫn hoàn toàn có thể trau dồi, rèn luyện và tích luỹ kiến thức, kỹ năng, hình thành thái độ để trở thành những công dân toàn cầu “made in Việt Nam”. TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã chia sẻ như vậy.
Ông nói: “Thực ra, công dân toàn cầu chỉ là một cách nói thôi. Nói đến công dân là nói đến người chủ thì nó phải có một thiết chế toàn cầu hoặc chính phủ toàn cầu, để công dân bầu lên và tác động tới chính phủ đó. Với nghĩa đó thì thế giới mới đang trong quá trình hình thành các thiết chế toàn cầu”.
6 phẩm chất để vượt khỏi “luỹ tre làng”
- Nhưng nếu hiểu theo cách phổ thông thì theo ông, một công dân toàn cầu cần có những phẩm chất gì?
Trước hết, công dân toàn cầu phải có tư duy và tầm nhìn toàn cầu. Phải hiểu được thế giới, thấy được đâu là những vấn đề của nhân loại, đâu là cơ hội, đâu là rủi ro.
Con ếch ngồi dưới đáy giếng thì thế giới chỉ là trong cái giếng và vũ trụ chỉ là vành tròn trên miệng giếng. Cũng như nếu anh ở Việt Nam thì chỉ thấy được luỹ tre thôi. Có thể anh là “dân quê sung sướng” nhưng cũng chỉ trong phạm vi đó.
Nếu có tầm tư duy toàn cầu, anh hiểu được rằng nếu học nghề này, mình có thể làm việc được ở Pháp, ở Anh, ở Đức...
Phẩm chất thứ hai, và cũng là hệ quả của cái thứ nhất là phải có một tư duy và cái nhìn rất mở để chấp nhận và tôn trọng những khác biệt trên thế giới.
Thứ ba là phải cảm nhận và chia sẻ trách nhiệm với những vấn đề lớn chung của toàn cầu như trái đất nóng lên, khủng bố, khan hiếm lương thực…
Bên cạnh đó, người công dân toàn cầu phải làm chủ được công cụ để tiếp cận thế giới ảo, để chỉ cần qua con chuột và bàn phím mà biết cả thế giới.
Có hai công cụ quan trọng không thể thiếu: Thứ nhất là công nghệ thông tin và truyền thông, mà đặc biệt là internet. Thứ hai là tiếng Anh vì có những vấn đề toàn cầu xuất hiện bằng tiếng Anh trước, nếu không biết tiếng Anh thì không tiếp cận được.
Một yếu tố quan trọng làm nên công dân toàn cầu là nền tảng tri thức và học thuật được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Học ĐH ở Việt Nam sang Mỹ không làm việc được thì rất khó thành công dân toàn cầu. Ngược lại, nếu anh có bằng tốt nghiệp từ những trường ĐH có tên tuổi thì gần như đã sở hữu tấm hộ chiếu toàn cầu.
Vì thế, muốn cho càng nhiều người VN trở thành công dân toàn cầu thì phải có nền giáo dục được chấp nhận trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, cũng có những bạn trẻ Việt Nam học ĐH trong nước, có đủ phẩm chất cần thiết thì vẫn được các công ty, tập đoàn nước ngoài tuyển dụng và đào tạo thêm. Khi tạo danh tiếng trong công ty thì làm việc ở đâu cũng được. Như vậy họ có thể thành công dân toàn cầu nhưng phải đi đường vòng.
Cuối cùng, người công dân toàn cầu phải hiểu được toàn cầu hoá không loại bỏ bản sắc riêng. Anh làm toàn cầu trở nên phong phú hơn khi anh đưa bản sắc của dân tộc anh vào. Một người công dân toàn cầu thực sự sẽ bổ sung giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình vào nền văn hoá chung toàn cầu. Công dân toàn cầu và công dân Việt không loại trừ nhau.
- Theo đánh giá của ông, hiện nay xét trên mặt bằng chung, trình độ của thanh niên Việt Nam đã đạt được mức độ toàn cầu chưa?
Đây là một câu hỏi tương đối khó trả lời. Vì phải có định lượng, không có công cụ để nghiên cứu. Nhưng cứ lấy ví dụ: trong 6000, 7000 người dự tuyển vào hãng Intel, người ta chỉ chọn được vài chục người theo yêu cầu của họ.
Như vậy,có thể nói số lượng công dân toàn cầu đạt được phẩm chất quốc tế rất khiêm tốn. Đó là bức tranh rất đáng băn khoăn về công dân toàn cầu của Việt Nam.
Thiếu hộ chiếu toàn cầu: có lỗi của người trẻ
Để có những công dân toàn cầu "Made in Vietnam"
- Bằng tốt nghiệp các trường ĐH ở Việt Nam vẫn chưa được quốc tế công nhận trên phạm vi thế giới. Như ông đã nói, điều này đồng nghĩa với việc giới trẻ Việt thiệt thòi vì thiếu đi tấm hộ chiếu toàn cầu. Nhưng đó đâu phải lỗi của những người trẻ?
Thực chất thì không hoàn toàn là lỗi của những người trẻ nhưng cần nhìn nhận từ cả 2 phía.
Cũng như người ta nói rằng: “Một dân tộc sẽ có những lãnh tụ như dân tộc đó xứng đáng được có”. Một nửa vấn đề ở lãnh tụ, một nửa vấn đề ở người dân. Dân đòi hỏi, dân có kỹ năng thực hành dân chủ thì người lãnh đạo phải giỏi.
Còn người học biết đòi hỏi, biết mình muốn gì, có những yêu cầu xác đáng với việc dạy chứ không phải bưng ra gì thì học đấy và tìm mọi cách lấy lòng thầy để được điểm theo kiểu “văn hay nhờ tay thầy chấm”. Trong trường hợp như vậy thì hệ thống không có sức ép để thay đổi.
Ở Mỹ, HS được đăng ký thầy dạy nên nếu thầy dạy lơ mơ thì chẳng học trò nào theo học. Ở Việt Nam cũng có một số trường áp dụng hình thức “trò đánh giá thầy”. Học trò cần đánh giá trung thực, công bằng.
Như vậy có lỗi của nền giáo dục, nhưng không nên nói là SV hoàn toàn không có lỗi gì. Tất nhiên, trong hệ thống này thì phần lỗi của SV ít hơn.
- Vậy ông có lời khuyên cho thanh niên Việt Nam để “sửa lỗi” này?
Trước tiên phải nhớ rằng học là quá trình hai chiều, một nửa do người dạy, một nửa do người học. Có một số điều mà SV có thể tự trau dồi để trở nên hữu ích trong quá trình hội nhập.
Thứ nhất phải học thật. Đừng học vì điểm mà học để có kỹ năng và trở nên thông tuệ. Học để có kiến thức chỉ là việc rất nhỏ. Học để có kỹ năng thu thập kiến thức là khó hơn. Học để có kỹ năng sáng tạo là quan trọng hơn nữa và học để có kỹ năng xử lý các vấn đề của cuộc sống.
Học để được điểm cao thì có thể trùng với học thật một chút. Nhưng nếu thiết kế hệ thống không chuẩn, đa số nó chẳng có ích cho cuộc sống bao nhiêu. Mà bạn chỉ có chừng ấy thời gian, tâm lực và trí lực, phải xác lập ưu tiên trong việc học để học cái gì hữu ích.
Tiếp theo nữa là phải học cách học và học cách hợp tác, làm việc theo đội (teamwork).
Cũng cần phải học tiếng Anh để có thêm công cụ, không phải chỉ để giao tiếp bình thường và chìa khoá mở tri thức mà còn là công cụ để tư duy.
Một lời khuyên không phải mới mẻ mà tôi chỉ lặp lại của ông trùm Microsoft Bill Gates là kỹ năng đọc rất quan trọng. Tri thức nằm ở sách vở. Nhưng phải có kỹ năng đọc.
Nếu bạn đọc sai lĩnh vực thì sẽ chẳng thu nhận được gì. Đọc để giải trí khác với đọc để tìm thông tin, đọc để suy ngẫm.
- Còn trách nhiệm, tư duy và tầm nhìn toàn cầu, liệu người Việt trẻ có thể rèn luyện để hình thành được không?
Những điều này đều xuất phát từ nhận thức. Nếu anh có kiến thức cơ bản về các quy luật tự nhiên và xã hội thì anh sẽ thấy những quy luật đấy gắn kết thế giới lại với nhau.
Nhận thức và tri thức là cơ sở hình thành tầm nhìn toàn cầu. Ví dụ nếu biết việc chạy đến nơi nào có giá lao động rẻ hơn, hàng chảy về nơi nào có giá mua đắt hơn nghĩa là đã có cái nhìn toàn cầu.
Khi có kiến thức thì sẽ hiểu được chuyển động của các quy luật toàn cầu. Ví dụ quy luật của cung-cầu. Chỉ cần khan hiếm thực phẩm là giá tăng. Khan hiếm là do nhiều nơi thấy phát triển công nghiệp có lợi hơn nên bỏ nông nghiệp, do sai lầm đường lối chính sách, thiên tai…
Bên cạnh đó, cần hình thành thói quen giao lưu. Giao lưu ảnh hưởng tới cách suy nghĩ và giao tiếp. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều người nước ngoài nên cơ hội giao lưu không thiếu. Qua internet cũng có thể giao tiếp với họ.
Cũng cần có tầm văn hóa rộng, phải tìm hiểu văn hóa nhiều thì mới có được tầm nhìn toàn cầu.
Nhưng nguyên tắc là tư duy toàn cầu, hành động địa phương.
Người Việt thoải mái co cụm trong không gian của mình
- Giới trẻ là đối tượng rất dễ tiếp thu cái mới nhưng đôi khi không có khả năng chắt lọc. Họ hấp thụ ồ ạt văn hoá nước ngoài và xa dần các giá trị truyền thống. Nhiều người lo ngại rằng, với tốc độ toàn cầu hoá nhanh như hiện nay, trong vòng vài chục năm tới, ta sẽ có nguy cơ mất bản sắc văn hóa. Ông có nghĩ vậy không?
Gần như có một quy luật tự nhiên là có những lứa tuổi thích khám phá cái mới nhưng tuổi càng đằm, càng trở về với cội nguồn. Cũng có những bạn còn trẻ đã thích các giá trị văn hóa truyền thống nhưng không nhiều.
Văn hóa càng cao càng có xu hướng kết hợp hài hòa giữa tinh hoa thế giới và giá trị truyền thống.
Văn hóa càng thấp càng có xu hướng chạy theo những được cho là mốt dù ngay bản thân mình cũng không thích.
Thử nhìn các nước châu Âu là nơi nhất thể hóa gần như không có biên giới, tiêu chung một đồng tiền nhưng người Đức và người Bỉ không bị lẫn vào nhau, người Hà Lan vẫn giữ được bản sắc của mình. Các dân tộc không hề bị xóa nhòa.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy không có chuyện bị xóa bản sắc trong hội nhập.
- Thế giới hiện nay tồn tại 2 khái niệm: “Sốc văn hóa” và “sốc văn hóa ngược”. Theo ông, liệu công dân toàn cầu có rơi vào những trạng thái sốc này không?
Sốc văn hóa cũng như sốc thuốc thôi. Sốc là cảm giác tự vệ. Anh không thích nghi được với giá trị mới và muốn yên ổn trong cơ chế cũ nên thấy lạc lõng trong thế giới mới thì anh phản ứng chống lại. Đó là phản ứng tự nhiên của con người.
Khi anh trong môi trường hoàn toàn đóng, bước sang một môi trường hoàn toàn mới thì dễ bị sốc. Nếu anh đã là công dân toàn cầu và có bước chuẩn bị thì sốc vừa phải.
Sốc văn hóa ngược là anh đánh giá lại nền văn hóa của đất nước từ tầm nhìn và kinh nghiệm ở nước ngoài và thấy có nhiều mặt hạn chế trong so sánh nên nhiều khi thấy buồn.
Nếu anh đưa kiến thức hiểu biết nước ngoài về làm việc được ở Việt Nam thì cái sốc đó sẽ qua đi rất nhanh. Trừ trường hợp những thứ anh học ở nước ngoài chẳng sử dụng gì trong đất nước, những kỹ năng học ở nước ngoài trở thành “kỹ năng giết rồng” thì sốc sẽ kéo dài, kết hợp với nhiều cảm xúc khác.
- Đã đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người trên toàn thế giới, ông có ấn tượng đặc biệt nào về khả năng thích ứng toàn cầu của thanh niên nước ngoài không?
Khả năng thích nghi của thanh niên ở một số nước tốt hơn một số nước khác. Có hai yếu tố hình thành nên sự khác biệt này.
Thứ nhất là tại gia đình, con cái được dạy dỗ để có tính tự lập từ rất nhỏ. Một đứa trẻ biết đi thì người phương Tây không bao giờ bế nữa.
Nếu đứa bé Việt Nam bị ngã thì bố mẹ sẽ đánh đất vì “cái đất này làm con ngã” nhưng người phương Tây sẽ bảo: “Con đi không cẩn thận thì ngã, lỗi ở con, tại sao còn khóc?” Đây là sự khác biệt rất cơ bản.
Con người nhận trách nhiệm về phía mình. Còn ở Việt Nam thì từ bé đã được dạy cách đổ lỗi cho người khác, khi lớn lên đổ lỗi cho tập thể, cho cơ chế.
Thứ hai là người phương Tây rất thích khám phá. Người Việt cũng chẳng hiểu người dân tộc ở Sapa sinh sống thế nào bằng dân du lịch ba lô. Họ thuê xe mô tô đi khắp ngõ ngách.
Họ thích những kinh nghiệm mới, cảm giác mới nên đối với họ, hội nhập dễ hơn. Còn người Việt mình thì rất thoải mái co cụm trong không gian của mình.
- Đến khi lớn lên, thanh niên phương Tây lại được hưởng thụ nền giáo dục hiện đại...
Khi lớn lên họ lại được hưởng nền giáo dục tốt, không biến HS thành cái hũ để nhồi nhét kiến thức. Học thì chẳng bao giờ hết sách của “thánh hiền”, quan trọng là khi có vấn đề thì phải “sáng lên”, cố gắng tạo ra tri thức mới.
Vẫn có cơ hội cho “nông dân toàn cầu”
- Trong thời hội nhập, ông nghĩ rằng thanh niên nông thôn có nhiều cơ hội trở thành công dân toàn cầu không?
Điều này phụ thuộc vào nền giáo dục mà thanh niên nông thôn được tiếp cận. Nếu được tiếp cận giáo dục bình đẳng thì cơ hội của thanh niên nông thôn nhiều hơn.
Bản thân người thanh niên phải đeo bám học tập thật đến cùng. Cố gắng đến mức cùng cực để theo đuổi việc học tập. Có thể đi làm thêm, vay tiền để được đi học. Nếu dừng học là cơ hội sẽ đóng lại.
Nhà nước nên có một quỹ nhiều hơn để cho thanh niên nông thôn vay. Cho vay thì tốt hơn cho không vì cho vay sẽ có động lực học tốt để làm được việc có tiền trả.
Thứ hai là cần học suốt đời. Không phải ra khỏi trường ĐH không học nữa. Bill Gates chỉ học ĐH có 2 năm nhưng sau đó tiếp tục học trong quá trình làm việc.
Còn người thanh niên nông thôn dù nuôi tôm thì cũng phải học tiếp nghề nuôi tôm. Học kiến thức qua sách vở, qua những người đi trước, qua kinh nghiệm của chính mình. Không chỉ học mỗi nuôi tôm mà học cách bán tôm, thị trường tôm chuyển động thế nào. Phải học liên tục. Chấm dứt việc học lúc nào thì khả năng thành đạt chấm dứt lúc đó.
Cũng nên nhớ rằng, ở thành phố có nhiều cơ hội hơn chỉ khi anh có kỹ năng và kiến thức cao hơn, nếu không anh chỉ được làm những việc thấp kém.
- Nhưng quá trình phấn đấu trở thành một công dân toàn cầu của họ sẽ khó khăn hơn nhiều so với thanh niên ở thành phố?
Khó khăn hơn nhiều nhưng không phải cái đích bắt buộc phải hướng tới.
Người thanh niên chỉ cần trở thành một người sống tự do, làm chủ được cuộc đời của mình, có điều kiện phát triển tiềm năng và ước mơ của mình. Nếu công dân toàn cầu giúp làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mình thì sẽ là bước phấn đấu tiếp theo.
- Xin cảm ơn ông!
Sưu tầm
16
NGÀ
UNDEFINED
Đại học FPT vừa được Tổ chức QS Stars công nhận đạt tiêu chuẩn 3 sao trở thành trường đại học Việt Nam đầu tiên đạt chuẩn quốc tế. Tạp chí PC World VN đã phỏng vấn ông Lê Trường Tùng, Hiệu trưởng Đại học FPT về các nội dung xung quanh sự kiện này.
Đại học FPT được QS Stars xếp vào nhóm trường ĐH 3 sao trên thế giới chủ yếu do những điểm nào?
ĐH FPT được QS Stars đánh giá 3 sao dựa vào các yếu tố chính là hoạt động đào tạo, đóng góp xã hội và việc làm. Nếu chỉ tính riêng điểm dành cho đào tạo (Teaching) và đóng góp xã hội (Engagement) thì ĐH FPT được chuẩn 5 sao; còn việc làm (Employability) và cơ sở vật chất (Facilities) được 4 sao.
Tuy nhiên, ngoài 2 yếu tố trên còn có các yếu tố khác như cơ sở vật chất, nghiên cứu, tỷ lệ sinh viên/giảng viên nước ngoài. Yếu tố đào tạo có được từ nỗ lực của bản thân ĐH FPT; còn việc tổ chức việc làm cho sinh viên thì ĐH FPT đã tập trung từ đầu. Về cơ sở vật chất, chúng tôi cũng có thêm điểm nhờ trường vừa đưa vào vận hành cơ sở mới tại Khu Công nghệ cao Hoà Lạc.
ĐH FPT được QS Stars chấm 408/1.000 điểm. Theo thang điểm QS Stars thì cứ 250 điểm đạt chuẩn 2 sao; 400 điểm là 3 sao; 550 điểm là 4 sao; 700 điểm là 5 sao… Các mức độ gắn sao cách nhau 150 điểm. Ngoài ra, QS Stars còn tiêu chuẩn Five Stars plus dành cho trường ĐH nào được chấm điểm các yếu tố đều được 5 sao.
Chi phí và thời gian khi ĐH FPT tham gia vào chương trình đánh giá - xếp hạng theo chuẩn QS Stars?
Nếu xét về chi phí thì không quá lớn; chúng tôi mất khoảng 6 tháng từ lúc nộp hồ sơ - đánh giá - xếp hạng… cho đến lúc được QS Stars công nhận là ĐH 3 sao. Tiêu chuẩn này sẽ có giá trị trong vòng 3 năm; sau đó ĐH FPT cần đăng ký đánh giá lại.
Điều quan trọng, qua tiêu chuẩn này, ĐH FPT sẽ nhìn thấy bản thân đang đứng ở vị trí nào so với các trường ĐH khác. Từ đó mới có cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển - nâng tầm ĐH FPT. Hàng trăm trường đại học khác trên thế giới cũng tham gia vào chương trình xếp hạng này nhằm thúc đẩy việc phát triển.
Chiến lược hội nhập quốc tế của ĐH FPT hoạch định ra sao trong tương lai? Chuẩn 3 sao QS sẽ góp phần thu hút sinh viên nước ngoài đến học?
Theo quan điểm của QS Stars, một trường ĐH sẽ có 4 sứ mệnh: Thứ nhất là đào tạo; thứ nhì là việc làm; thứ ba là nghiên cứu và cuối cùng là toàn cầu hoá. Có những trường dù có số điểm trên 500 nhưng nếu không đạt tỷ lệ 5% sinh viên nước ngoài thì ĐH đó cũng không được 4 sao. QS Stars đưa ra một số yếu tố bắt buộc để các trường ĐH trên thế giới phấn đấu đạt chuẩn cao (4 - 5 sao).
Yếu tố toàn cầu hoá được QS Stars chấm điểm dựa trên tỷ lệ giảng viên và sinh viên nước ngoài học tại một trường đại học. Toàn cầu hoá được QS Stars yêu cầu như một sứ mệnh bắt buộc và yếu tố then chốt. Họ chấm điểm dựa trên số lượng sinh viên đang học tại ĐH FPT; giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy; kế hoạch hàng năm sẽ nhận bao nhiêu sinh viên nước ngoài vào học và đưa bao nhiêu sinh viên Việt Nam ra nước ngoài… QS Stars yêu cầu phải có môi trường đa văn hoá trong một trường đại học quốc tế với sự tham gia học tập của sinh viên đến từ nhiều nước.
Khi ĐH FPT bắt đầu tham gia vào nhóm các trường ĐH được gắn sao trên thế giới, việc trao đổi sinh viên giữa các trường sẽ trở nên dễ dàng hơn. Hầu hết các trường đều có nhu cầu trao đổi sinh viên với nhau nhằm tăng cường tỷ lệ sinh viên nước ngoài.
Việc ĐH FPT được gắn sao sẽ tạo nên sự khác biệt như thế nào so với các trường ĐH trong nước?
Về cơ bản, ĐH FPT khẳng định thêm uy tín khi có được QS Stars đánh giá 3 sao. Việc trở thành trường đại học đầu tiên tại Việt Nam được chuẩn quốc tế QS 3 sao sẽ góp phần tạo hình ảnh tốt cho nhà trường. Đồng thời, dựa trên báo cáo chi tiết của QS Stars - ĐH FPT sẽ tích cực cải tổ các bộ phận để tăng cường những điểm còn yếu (như nghiên cứu và toàn cầu hoá).
Sang năm 2013, về chiến lược phát triển ĐH FPT sẽ tăng cường tỷ lệ giảng viên và sinh viên nước ngoài. Dự kiến, từ giữa năm 2013 sinh viên nước ngoài sẽ cùng học với sinh viên Việt Nam và sẽ được cấp bằng của ĐH FPT.
Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ tăng cường số lượng môn học dạy bằng tiếng nước ngoài. Đồng thời ĐH FPT có kế hoạch mở cơ sở đào tạo (campus) tại nước ngoài trong tương lai gần. ĐH FPT cũng hướng đến việc tuyển sinh ở một số nước trong khu vực lân cận trong năm 2013.
Ông có nghĩ rằng tiêu chuẩn này sẽ giúp cho ĐH FPT thúc đẩy việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành CNTT-TT Việt Nam - hướng đến nâng tầm quốc tế cho nhân lực được đào tạo trong hệ thống ĐH FPT?
Về định hướng đào tạo nguồn nhân lực CNTT-TT, các yếu tố được QS Stars nhắm đến để “chấm điểm - gắn sao” như đào tạo - việc làm - nghiên cứu - toàn cầu hoá đều cần cho sinh viên Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn có được đội ngũ nhân lực chất lượng cao cần hướng đến mục tiêu toàn cầu hoá; sinh viên Việt Nam phải hướng đến mục tiêu trở thành “công dân toàn cầu”.
Đồng thời, có thể trong tương lai sẽ có thêm nhiều đại học Việt Nam tham gia vào cuộc chơi này (đánh giá theo chuẩn quốc tế). ĐH FPT dự kiến đăng ký với QS Stars tổ chức hội thảo quốc tế với sự tham gia của nhiều trường đại học vào năm 2016. Đây sẽ là cơ hội để các trường đại học Việt Nam giao lưu - trao đổi kinh nghiệm cùng với các trường đại học quốc tế.
16
NGÀ
UNDEFINED
Công dân toàn cầu là những người sẵn sàng ra biển lớn và không sợ thất bại, dù biết rằng phía trước họ có không ít rủi ro.
Nếu được lựa chọn, ta có chọn trở thành công dân toàn cầu? Nếu được lựa chọn, ta có cho con ta trở thành công dân toàn cầu, lấy một anh chồng Tây, sinh sống ở xứ sở lạnh lẽo suốt đời?
Trong thế giới toàn cầu hóa, người ta có thể đi từ nước này qua nước khác, sinh sống, lập gia đình, tạo dựng sự nghiệp, rồi lại chuyển đến nước khác. Jos, một người bạn của tôi, là một thí dụ. Ông sinh ra ở Hà Lan, làm việc ở Ấn Độ, Việt Nam, rồi sang Singapore làm giám đốc vùng của một công ty đa quốc gia. Tất nhiên khi ông đi từ nước này qua nước khác, gia đình cũng chuyển theo. Sau đôi ba năm, con ông lại học ở một trường khác, thông thường là trường quốc tế. Phương Nga, em họ của tôi, sinh ở Việt Nam, học ở Đức, lấy chồng Đức, làm việc ở một tập đoàn đa quốc gia, cứ 3 năm lại di chuyển chỗ ở một lần. Hiện nay cô làm việc tại Ai Cập. Đối với cha mẹ cô, việc “lấy chồng Tây” là điều trước đây không thể tưởng tượng nổi. Các cụ cho rằng như vậy là “mất con” (?).
Công dân toàn cầu, theo tôi, là những người nhanh chóng hội nhập vào thế giới phẳng, hội nhập vào từng quốc gia mà họ đến. Họ xây dựng sự nghiệp cho công ty, đại diện cho đất nước họ mang quốc tịch hay sinh ra. Họ không nhất thiết coi mình là người Hà Lan, người Nhật hay người Việt, cũng không chỉ kết thân với những người đồng hương. Có lẽ Ngô Bảo Châu là một trong những biểu tượng của công dân toàn cầu người Việt.
Thế nhưng, cũng không ít người bôn ba khắp năm châu, nhưng nhất định phải về Việt Nam lập gia đình, xây dựng sự nghiệp. Về nhà, tự nó mang trong mình một cảm giác yếm thế, vậy mà đối với không ít người Việt Nam lại là điều mong đợi nhiều nhất. Đến độ, khi ra nước ngoài, vẫn phải tìm món ăn Việt Nam, nước mắm Việt Nam, xem phim, nghe nhạc Việt Nam như một món ăn tinh thần không thể thiếu. Cả năm dành dụm được tiền là phải về Việt Nam, nhậu một bữa cá kèo, lai rai vài xị đế. Có người ở khu Little Saigon (Mỹ) cả đời mà không nói tiếng Anh. Họ chưa phải là công dân toàn cầu, vì họ vẫn còn nặng nợ với Việt Nam, hay do không hòa nhập nổi với nơi họ đang sống.
Nếu được lựa chọn, ta có chọn trở thành công dân toàn cầu? Nếu được lựa chọn, ta có cho con ta trở thành công dân toàn cầu, lấy một anh chồng Tây, sinh sống ở xứ sở lạnh lẽo suốt đời? Đặt câu hỏi này với 100 người Việt, có thể câu trả lời “không” chiếm đa số. Vì sao vậy? Vì có quá nhiều rủi ro khi trở thành công dân toàn cầu. Thứ nhất là các cuộc hôn nhân xuyên biên giới có thể khó hòa hợp. Thứ hai, làm công dân toàn cầu khó lập nghiệp một mình. Khi mới đặt chân đến một nước, ta phải dựa rất nhiều vào người bản địa để hiểu phong tục tập quán, để tiếp thị sản phẩm. Thế nhưng sau 3, 4 năm, khi bắt đầu quen với cuộc sống mới, ta lại phải chuyển đến một nơi… mới hơn. Thứ ba, con cái ta khó mà học giỏi hay bạo dạn, vì chuyển trường liên tục, chỉ biết tiếng Anh và rất ít bạn thân. Thứ tư, ta e ngại sẽ bị người đời coi mình mất gốc, vì tiếng Việt không thạo.
Ngoài yếu tố rủi ro, có lẽ vấn đề còn lại là ta quá yêu mến Việt Nam đến độ không thể nghĩ đến chuyện rời xa đất nước mình. Mà đây cũng không phải là điều lạ đối với người nước ngoài. Tôi biết nhiều người nước ngoài đến Việt Nam ban đầu thì không thích, phàn nàn đủ kiểu, sau đâm yêu Việt Nam, đến độ khi bị chuyển đi thì xin nghỉ việc chuyển sang công ty khác, nhận mức lương thấp hơn chỉ được để ở lại Việt Nam. Vì sống ở Việt Nam dễ dàng quá, khí hậu ôn hòa, con người niềm nở, kinh tế lại đang phát triển. Ta sợ khi ra nước ngoài phải cạnh tranh, lộ rõ điểm yếu của mình và sợ phải thất bại.
Dẫu sao mặc lòng, công dân toàn cầu là những người sẵn sàng ra biển lớn và không sợ thất bại. Rủi ro của những công dân toàn cầu rõ ràng là có. Nhưng không có thành công nào không phải trả giá. Theo tôi, có lẽ cách hợp lý nhất là từ năm 20 đến năm 35 tuổi hãy cố gắng trở thành công dân toàn cầu, vì “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Sau đó hãy quyết định xem mình nên quay về quê hương để tạo dựng sự nghiệp, hay tạo dựng sự nghiệp ở nước ngoài, như một công dân toàn cầu thực thụ.